Viết tặng lớp Chiêm Tinh. Đây là 1 chủ đề nâng cao của Chiêm Tinh, bạn cần có lượng kiến thức nhất định về Chiêm Tinh để đọc hiểu bài viết này. ---quybaba---
Bài viết này thuộc chuyên mục "Thất Chính, Tứ Dư" của blog quybaba.blogspot.com
Tinh Mệnh Học Trung Hoa thực chất chính là bộ môn Chiêm Tinh mang bản sắc Trung Hoa, cùng du nhập từ nguồn gốc Ấn Độ như Chiêm Tinh Tây Phương, do vậy có chung 1 số đối tượng như mặt trời, mặt trăng, các sao kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ (gọi chung là Thất Chính).
More about → Tứ Dư
Bài viết này thuộc chuyên mục "Thất Chính, Tứ Dư" của blog quybaba.blogspot.com
Tinh Mệnh Học Trung Hoa thực chất chính là bộ môn Chiêm Tinh mang bản sắc Trung Hoa, cùng du nhập từ nguồn gốc Ấn Độ như Chiêm Tinh Tây Phương, do vậy có chung 1 số đối tượng như mặt trời, mặt trăng, các sao kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ (gọi chung là Thất Chính).
Ở Phương Tây, các đối tượng Thiên Văn sau này được thêm vào lá số và có giá trị lớn trong luận đoán gồm có: Chiron, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh, Diêm Vương Tinh, Mean Lilith, North Node. South Node. Các đối tượng bổ sung này, kết hợp với Thất Chính chính là các đối tượng phải có trong 1 cuốn lịch Thiên Văn tiêu chuẩn của Phương Tây
Ở Trung Quốc cổ đại, ngoài Thất Chính, các nhà Tinh Mệnh Học đã sử dụng 2 nhân tố Thiên Văn vốn có ý nghĩa quyết định để tính toán Nhật Thực, Nguyệt Thực là La Hầu (Rahu) và Kế Đô (Ketu), có nguồn gốc từ Chiêm Tinh Ấn Độ, hợp với 2 nhân tố hẳn là đặc sản địa phương là Nguyệt Bột, Tử Khí tạo thành 1 hệ thống thứ 2 gọi là Tứ Dư, đó là 4 công cụ rất mạnh trong luận đoán lá số, tiếc rằng hiện nay cũng coi như thất truyền vì để hiểu bản chất của các luận đoán sử dụng 4 đối tượng này, một người cần có công phu nhất định về Thiền Quán cũng như kinh nghiệm tự thân kinh qua thăng trầm trong cuộc sống.
Có một điều đáng tiếc là hiện nay dù Chiêm Tinh Tây Phương đã du nhập nhiều loại đối tượng luận đoán từ nhiều nguồn, như hệ thống các điểm tính toán đặc biệt gọi chung là các Parts của Ả rập. La Hầu, Kế Đô của Ấn Độ (tên tiếng Anh là Moon Nodes) Black Moon Lilith của Lưỡng Hà (Chính là Nguyệt Bột trong Tinh Mệnh Học Trung Hoa). Nhưng lại hoàn toàn không tham khảo đến hệ thống Tứ Dư của Trung Hoa.
Tứ Dư gồm có:
La Hầu (được coi là dư khí của sao Hoả) Tên trong hệ thống của Chiêm Tinh Tây Phương là North Node
Kế Đô (được coi là dư khí của sao Thổ) Tên trong hệ thống của Chiêm Tinh Tây Phương là South Node
Nguyệt Bột (được coi là dư khí của sao Thuỷ) Tên trong hệ thống của Chiêm Tinh Tây Phương là Mean Lilith
Tử Khí (Được coi là dư khí của sao Mộc) Không tìm thấy trong hệ thống của Chiêm Tinh Tây Phương.
La Hầu, Kế Đô là 2 điểm được sử dụng rộng rãi trong Evolution Astrology, một nhánh mới phát triển của Chiêm Tinh Học Tây Phương, chuyên nghiên cứu về Nghiệp Quả, các bài học cho linh hồn và lý thuyết cho rằng mỗi cá nhân đã tự thiết kế cuộc đời từ trước khi sinh ra. Sách vở của nhánh này hoàn toàn là công truyền, có thể dễ dàng tìm được trên Amazon. Đây hiện là nhánh quy tụ đại đa số cây đa cây đề trong giới Chiêm Tinh Gia Tây Phương. Tôi đã viết 1 bài khá chi tiết về cách sử dụng La Hầu, Kế Đô trong luận đoán 1 lá số trên Blog này, bạn có thể tham khảo nó ở đây.
Theo thông tin cung cấp trong Quả Lão Tinh Tông, 1 cuốn sách về Tinh Mệnh Học đã được dịch sang tiếng Việt, toạ độ của Nguyệt Bột, Tử Khí có thể tra cứu dễ dàng trong Trường Lịch, 1 loại Lịch Thiên Văn Trung Quốc. Nếu bạn chưa có Trường Lịch (bản thân tôi cũng không có) bạn có thể dùng Lịch Thiên Văn của Tây Phương (Ephemeris) để tra cứu toạ độ của Nguyệt Bột (chính là Mean Lilith, có biểu tượng là hình trăng lưỡi liềm đen đặt trên 1 chữ thập trong bảng bên dưới) Còn toạ độ của Tử Khí thì tạm ước lượng bằng cách nhẩm tính theo công thức là, 0.0352 độ 1 ngày, nó đi độ 28 năm (10228 ngày) hết 1 vòng, 28 tháng hết 1 cung Hoàng Đạo. Và vào ngày 1/6/2009, nó ở 10 độ 35 phút cung Bảo Bình, đến 30/6/2009, nó ở 11 độ 37 phút cung Bảo Bình. Tuy nhiên, do 28 hoàn toàn là con số ở dạng làm tròn, và tốc độ chuyển động có biến hoá nho nhỏ, cho nên sai số theo cách nhẩm này là không tránh khỏi.
Nhận xét chủ quan của tôi về cuốn Quả Lão Tinh Tông sau khi đọc là, không hiểu người biên soạn cuốn sách này có hiểu mình viết cái gì không, và không hiểu người dịch cuốn sách này sang tiếng Việt có hiểu mình đang dịch cái gì không? Vậy nên, kiến giải về Tứ Dư của tôi hoàn toàn là dựa trên nền tảng tôi đã học từ Chiêm Tinh Tây Phương và kinh nghiệm luận giải những lá số tôi có. Tuy nhiên, cần có kiến thức nhất định về 12 cung Hoàng Đạo và 12 cung địa bàn cũng như năng lực quan sát khách quan và 1 số kiến thức Chiêm Tinh khác để có thể hiểu nó.
Bước đầu tiên, theo kinh nghiệm của tôi là không phải ngẫu nhiên mà 4 nhân tố này được gọi là Dư Khí của hành tinh. Chúng chính là nơi biểu hiện dấu vết rõ ràng nhất gây ra do hoạt động của hành tinh tương ứng. Hành tinh hoạt động càng mạnh, càng nhiều, dấu vết để lại sẽ càng rõ ràng và ngược lại. Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với các lý luận về La Hầu, Kế Đô và Nguyệt Bột đã có sẵn trong Chiêm Tinh Phương Tây, cũng không xung đột với các nguyên lý cơ sở để dùng La Hầu, Kế Đô luận đoán Nghiệp Quả. Để xét đoán xem hành tinh hoạt động mạnh hay yếu, thử 4 bài test Đi Tìm Nhân Tố Trội cho 4 hành tinh tương ứng là cần thiết.
Đã có bài viết riêng về La Hầu, Kế Đô. Ở đây chúng ta chỉ xét đến Nguyệt Bột và Tử Khí.
1. Nguyệt Bột
Ngoài Mean Lilith, Chiêm Tinh Phương Tây còn dùng thêm 1 toạ độ là True Lilith, cách luận giải giống Mean Lilith nhưng tác động nhanh và mạnh hơn, thường dùng trong điểm vận luận hạn.
Cái gọi là Mean Lilith, hay Black Moon Lilith, không phải một hành tinh hay thiên thạch, mà là 1 điểm toán học trên bầu trời. Về mặt Thiên Văn Học, mặt trăng chuyển động quanh trái đất không phải trên 1 hình tròn, mà là 1 elip có 1 tiêu cự là trái đất, tiêu cự thứ 2 là Lilith. Lại vì trái đất luôn quay quanh mặt trời nên quỹ đạo thực sự của mặt trăng cũng tịnh tiến theo trái đất mà phát sinh biến hoá, toạ độ của Lilith trên đường Hoàng Đạo nhìn từ trái đất thường được xác định dựa trên công thức tính viễn điểm của mặt trăng (Lunar Apogee), tức là điểm xa trái đất nhất trong quỹ đạo của mặt trăng, do đó vị trí của nó trên vòng tròn Hoàng Đạo không phải là bất biến mà là 1 chuyển động có chu kì theo chiều ngược kim đồng hồ, khoảng 9 năm thì đi hết 1 vòng. Khi mặt trăng trùng với Lilith trên đường Hoàng Đạo thì nó sẽ ở xa trái đất nhất, cũng tức là có ánh sáng yếu nhất. Tuy nhiên, về bản chất, không nên hiểu về nó như là viễn điểm của mặt trăng, mà nên hiểu là do đặc thù của vị trí quan sát là từ trái đất nên tiêu cự thứ 2 của elip quỹ đạo mặt trăng luôn trùng với viễn điểm của mặt trăng:
Lilith do đó quan trọng hơn điểm đối xứng của nó trên đường Hoàng Đạo, cũng chính là cận điểm của mặt trăng (Lunar Perigee) rất nhiều. Hiện nay có 1 số bạn Việt Nam ngộ nhận cận điểm này với Tử Khí, nhưng chu kì của cận điểm này là tương tự Lilith, vào khoảng 8 năm 10 tháng, trong khi chu kì của Tử Khí nghe đồn là 28 năm, cho nên thực sự là có bắn 7 tầm đại bác cũng chưa tới đâu.
Kinh nghiệm của tôi về việc luận đoán vị trí có mặt Nguyệt Bột trên 1 lá số là, lúc nhỏ chả có gì hot, cho nên, khỏi luận cũng được, nếu ai đó đủ tinh ý, sẽ thấy sinh hoạt ở khu vực đó đặc biệt rõ ràng, nổi bật trong trí nhớ cá nhân hơn so với bất kì khu vực nào khác, nhưng cũng chỉ thế thôi. Không phải ngẫu nhiên mà có Chiêm Tinh Gia bình luận rằng Kế Đô là quá khứ, La Hầu là Tương Lai, còn Nguyệt Bột là hiện tại. Cái gọi là hiện tại của 1 cá nhân, thông thường là hữu hạn, nhưng lại sống động, phức tạp, cụ thể, có thể nghe được, nhìn được, sờ được, cảm nhận được. Nghĩa chân thực nhất của hiện tại, người Phương Đông chúng ta gọi nó là Sở Tri Chướng (sự che mắt sinh ra do chấp trước vào hiểu biết của ta) Một cách nói khác, ở vị trí Nguyệt Bột trên 1 lá số, tầm nhìn của cá nhân là thiển cận nhất. Có câu, ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung. Vấn đề là, mỗi con ếch ở trong 1 cái giếng to nhỏ, nông sâu khác nhau, cái vung trên đầu nó cũng lớn nhỏ khác nhau, xác suất ếch có thể rời giếng cũng khác nhau. Một người sắc sảo có thể nghiệm lý được vị trí Nguyệt Bột của người nào có tầm nhìn thiển cận hơn mình, nhưng không thể nghiệm lý được nó ở người nhìn xa trông rộng hơn mình. Trang Tử nói, "không thể giảng cho ve sầu hiểu thế nào là tuyết, không thể nói cho thiêu thân hiểu cái gì là trăng sao", chính là đạo lý này. Thông thường, cá nhân cũng không tự nghiệm lý được vị trí có Nguyệt Bột trên lá số của chính mình, chúng ta sẽ chỉ nghiệm lý hạn Nguyệt Bột.
Cái gọi là hạn Nguyệt Bột, nếu đẹp, nó thường được các triết gia ví với hoa trong gương, trăng dưới nước. Nếu xấu, có ngày người ta sẽ nhìn lại nó như thể nhớ về 1 cơn ác mộng. Từ khoá duy nhất đúng trong mọi trường hợp dành cho nó là: "Tất cả rồi cũng sẽ qua." Bạn đang sống trong 1 hiện tại, sau đó hành tinh nhập hạn đem tới cho bạn 1 hiện tại khác, tuỳ theo đặc tính của hành tinh đó, mức độ tương thích của nó với bạn, mức độ tương thích của nó với vị trí có Nguyệt Bột của bạn, dẫn tới việc bạn có thể thích nó hay không, nhưng rồi nó sẽ đi qua, và cuộc đời của bạn không bao giờ còn giống như trước nữa. Tất cả những gì 1 người có thể làm trong hạn Nguyệt Bột là... chấp nhận và ... thông thường là kêu khóc không chịu, nhưng rồi vẫn phải chấp nhận. Nói chung, nếu bạn muốn đi thì hành tinh nhập hạn ấy dắt bạn đi, nếu bạn không muốn đi thì hành tinh ấy, chậc, hoặc lôi cổ hoặc vừa kéo vừa tha bạn đi (cái này còn phải xem nó có được bao nhiêu thành công lực và được cho bao nhiêu thời gian để dây dưa với bạn). Có người ví hạn Nguyệt Bột với hình tượng của 2 sự thay đổi liên tiếp, đầu tiên là 1 cánh cửa đóng lại, sau đó sẽ có 1 cánh cửa khác mở ra. Có lúc, chúng nó mở và đóng trong hoà bình, có lúc, cửa sẽ sập vào mũi bạn và bạn sẽ phải nổ đom đóm mắt 1 lúc lâu trước khi nhìn thấy cánh cửa mới.
Khi sao nhập hạn đủ mạnh, thời gian quấy quả đủ lâu, nó liền trở thành nhân tố gây ra bước ngoặt cuộc đời. Nhưng trước khi con người đi tới bước ngoặt đó, hiện tại thường chân thật, rõ ràng đến mức người ta không bao giờ tưởng tượng được cái ngày mình sẽ sống tiếp trong 1 hiện tại khác hẳn.
Tuy nhiên, bạn cũng không cần tưởng tượng phóng đại thái quá về tính chất bước ngoặt cuộc đời này. Ví dụ, mùa hè năm 1995, khi transit Mộc Tinh do chuyển động nghịch hành nên tác động qua lại lên 2 vị trí True và Mean Lilith của tôi trong suốt mấy tháng trời liên tiếp. Tôi đã chuyển thành công từ trạng thái vịt cạn sang trạng thái vịt nước, tóm lại là, tôi đã nghiêm túc ngồi suy nghĩ xem làm thế nào để biết bơi trong 1 buổi chiều bằng cách tự đặt nhiều câu hỏi cho mình rồi tự tìm câu trả lời, sau đó, tôi đã áp dụng mớ kiến thức tự có này để tự dạy mình tập bơi thành công. Sau đó, tôi còn cải tạo thành công luôn mấy con vịt cạn bạn tôi. Cách tư duy tôi đã sử dụng trong lúc tìm ra cách học bơi hiệu quả đó, hiện tại tôi vẫn còn dùng để tìm ra nhiều thông tin muốn biết, cần biết khác. 12 năm sau, khi Mộc Tinh đi qua khu vực này lần nữa, tôi gặp triết thuyết Ohsawa và cuốn sách nói về cách thực hành tâm tướng của Namboku Mizuno, đó là những lời dạy, những gợi mở về tư duy đã thay đổi triệt để nhân sinh quan, thế giới quan, giá trị quan của tôi. Phản ứng tả ra nghe sôi nổi như vậy là vì Mộc Tinh khá mạnh khi vào cung vị Nguyệt Bột của tôi. Và tất nhiên, nếu nói cho kỹ thì chuyện xoay quanh Mộc Tinh thì không phải chỉ có khía cạnh trí óc.
Những người có sao Thuỷ mạnh trên lá số rất rất rất không thích hạn Nguyệt Bột. Nếu sao tốt nhập hạn, họ sẽ khóc vì hết hạn. Nếu sao xấu nhập hạn, họ khóc vì ...chưa hết hạn. Trường hợp đầu là cảm giác đau khổ vì bị mất đi thứ mà mình quá quan tâm để ý luyến tiếc. Trường hợp 2, có lúc giống như thể bị mổ sống mà không gây mê gây tê vậy.
Những người có sao Thuỷ yếu thường có chút mơ hồ về hạn Nguyệt Bột của mình. Thông thường, họ chỉ có thể nghiệm được nó khi nhớ lại nó vào độ 10-15 năm sau. Vào lúc mà cái "bước ngoặt" kia sau khi "sai 1 ly" đã đưa họ "đi đủ 1 dặm"
Những người có Nguyệt Bột ở cung 5 và cung 7 là trường hợp đặc sắc nhất, họ rất khó vượt qua hạn Nguyệt Bột 1 cách êm ả, lúc này thì thường bất chấp luôn chuyện Thuỷ Tinh nhà họ mạnh hay yếu. Mà nếu không thế thì cổ nhân đã không đúc kết ra câu: "2 chữ ái tình thật cay đắng"
Tất nhiên, khi các sao hạn lần lượt thăm hỏi vị trí Nguyệt Bột trên lá số nhiều lần rồi thì đó chính là nơi chốn đã xảy ra nhiều chuyện thị phi, cho nên, đến 1 độ tuổi nhất định, khi cung vị Nguyệt Bột đã được ân cần hỏi thăm nhiều lần, vị trí đó trong kí ức cũng trở nên cụ thể, rõ nét, sinh động với những đặc tính kể ra cũng rất chi là... Nguyệt Bột. Một người sẽ nhớ về nó như một vị trí, nơi chốn, đặc tính mà mình hay có cách hiểu, cách tiếp cận, cách đánh giá, nhìn nhận vô cùng thiển cận, nông cạn. Cho tới 1 ngày...
2. Tử Khí
Bản thân Tử Khí không có năng lượng, nó chỉ là 1 điểm tính toán được, có thể coi nó như 1 tấm biển báo trên lá số thông báo về 1 vùng đặc biệt, nơi mà nếu 1 người sử dụng được, họ sẽ gặp may mắn thuận lợi trong cuộc sống. Cách dễ nhất để sử dụng được vị trí có Tử Khí là có hành tinh trên lá số gốc đồng vị với Tử Khí, như vậy ta chỉ cần sử dụng chức năng do hành tinh đó đại diện là đủ. Tuy nhiên, không phải ai sinh ra cũng có số rút trúng cái thăm may mắn này, cho nên khả năng cao hơn là chỉ khi sao hạn vận hành qua toạ độ của Tử Khí, một người mới tập trung vào sinh hoạt tại khu vực có mặt nó và thấy mình liên tục gặp may.
Bình luận chính thức cho cung vị có Tử Khí trên 1 lá số Chiêm Tinh là, may hơn khôn. Nghiệm lý của tôi về vị trí này trên 1 lá số là ngoài "may thế" cũng chỉ có "may quá", ở đó không có thách thức, không có tranh đấu, cho nên cũng không có cơ hội phát triển phẩm chất riêng. Kí ức của 1 người về cung vị có mặt Tử Khí trên lá số của họ, luôn luôn có những đoạn "chó ngáp phải ruồi" hay may mắn khó tin. Những kẻ may mắn nhất thường có hành tinh trên lá số gốc an toạ cạnh Tử Khí, tuy nhiên, nếu khu vực đó trùng với MC hay vùng phụ cận, nó có nhiều nguy cơ biến thành thứ vận may làm người ta thấy kiệt sức, thậm chí sẽ rút ngắn cuộc đời tương tự như trong tác phẩm "Miếng Da Lừa" của Balzac. Việc gặp may như thế nào, còn liên hệ với đặc tính riêng của hành tinh đứng cùng Tử Khí, ví dụ Mặt Trăng, thường làm 1 phụ nữ trở nên đặc biệt may mắn khi bắt đầu làm mẹ. Ngoài ra, do khó phát triển sâu sắc các phẩm tính riêng, biểu hiện của cá nhân ở cung vị có mặt Tử Khí thường có chút gì đó vô cùng thiếu muối, có thể đến trình độ thiếu muối mãn tính. Ở các lá số thông thường, khi có hành tinh nhập hạn Tử Khí, tuỳ theo tốc độ riêng của chúng là nhanh hay chậm, chủ lá số sẽ có 1 quãng thời gian may mắn kéo dài từ vài tiếng đồng hồ, đến vài ngày, vài tháng, thậm chí, vài năm.
Trong so sánh tương quan với cả lá số, cung vị của Tử Khí giống như 1 ốc đảo trong sa mạc, nơi con người ghé vào nghỉ ngơi dưỡng sức trước khi tiếp tục cuộc hành trình, đi tới cái đích đã định của mình. Thế nên, theo tôi việc nghỉ ngơi này là có giá trị và cần thiết, nhưng nên được tiến hành có chừng mực, giới hạn hợp lý thì mới tốt. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp 1 người được phép dành cả cuộc đời cho công tác nghỉ ngơi thư giãn này, ý tôi đang nói về những người có hành tinh cá nhân đồng vị với Tử Khí trên lá số gốc ấy mà, nghe đồn kiếp trước họ đã sống, chiến đấu, lao động rất vất vả và đấy là phần thưởng. Anyway, không nên quấy rầy những linh hồn đang cần thời gian nghỉ ngơi, cho nên thấy họ là tôi lập tức đi đường vòng. Tất nhiên, tránh họ không dễ như tránh 1 người đang chợp mắt nghỉ ngơi trên chiếc võng dưới những tán cây. Vì họ thuộc trường phái ... "mộng du". Cũng đừng hiểu lầm là họ đáng ghét hay gì đó. Chỉ vì chuyện tệ hại nhất là họ tưởng họ cũng bình bình phàm phàm như tất cả chúng ta. Rằng giống như chúng ta, đời họ cũng có khó khăn, gian khổ, cũng có nỗi đau, cũng phải chịu đựng đủ thứ trái ngang đến độ người giận thần oán. Đừng hiểu lầm, tôi không nói là họ không thông minh, không sắc sảo, không khôn ngoan, nhưng trên đời có 1 số loại trí tuệ, kinh nghiệm, hiểu biết chỉ phát sinh sau khi con người đã đủ nhọ, loại trí tuệ đó chắc chắn ở ngoài tầm với của họ. Và mỗi lần họ gato với mấy cái thứ hiểu biết dạng đó của tôi và sau đó, hoặc muốn tôi dạy cho họ, hoặc muốn tỏ ra trên cơ tôi, thực sự trông họ lúc đó rất ngu ngốc.
Họ không phải đối tác tốt, vì đối tác tốt sẽ cùng ta chung hưởng vinh nhục, muốn ta hiểu cho chỗ khó của họ, và họ cũng thông cảm với chỗ khó của ta. Người có hành tinh cá nhân đồng vị Tử Khí trên lá số gốc về căn bản không có khó khăn thực sự. Và mỗi lần họ bộc bạch về 9x9, 81 nạn mà họ từng gặp trên đường đời, bà con thực sự rất muốn nói: "Trời, tưởng gì?" Hoặc: "Rồi sao?" "Con nhà giàu dẫm phải gai mùng tơi hả?" Hay tệ hơn nữa: "Có mùi sướng quá hoá rồ!" Họ cũng tổn thương như ai khi ta nói họ có lớn mà không có khôn, rằng họ có thể có nhiều thứ thật nhưng trí tuệ và các phẩm chất tinh thần của họ là quá kém cỏi, trì trệ, không phát triển. Mà làm những chuyện chỉ trích như thế có thể dẫn tới tranh chấp. Chuyện lúc đó càng tệ hơn vì... họ càng không phải đối thủ tốt. Sống trên đời này, bạn có thể đọ sức, bạn có thể đua tài, nhưng đọ vận may với người được Tử Khí phù hộ thì ... bạn đúng là đồ ngu, không ngu thì cũng thừa hơi hay quá rảnh gì đó.
Trong hạn Tử Khí, gần như có thể nói bạn làm gì cũng có vẻ đúng, hay nói đúng hơn, bạn chỉ cần làm đại và kết quả của mấy chuyện làm đại đi ấy kiểu gì cũng tốt, thậm chí tốt đến không thể tin được. Một ví dụ. Trong thời gian Solar arc Moon của tôi gặp Tử Khí, có lần tôi ngồi chơi 3 cây ở nhà, có ván, bài của tôi cộng lại được tận... 1 điểm, vậy mà 3 người còn lại còn bị 1 điểm ở mức dưới cơ tôi nên vẫn thua. Các ván khác bốc được bài đẹp thì càng khỏi nói. Dì tôi tý nữa thì phát điên. Những chuyện may mắn ầm ầm đổ bộ khác thì càng không cần phải nói. Tuy nhiên, như tôi đã nói, hạn Tử Khí thường xảy ra ở khu vực rất thiếu tính chất trí tuệ, cũng như hiểu biết, kinh nghiệm sống và khả năng hoạch định chiến lược lâu dài. Do vậy, người gặp may mắn nhỏ trong hạn Tử Khí kiểu như không học mà qua, được đi du lịch miễn phí, mối làm ăn tốt dắt đến tận cửa ... thì nhiều, người dựa vào nó để đổi đời thì vô cùng hiếm. Thông thường, tôi thấy các trường hợp tốt nhất là Tử Khí ở Nhân Mã hoặc cung 9, thành quả có được sau khi nhập hạn rất dễ duy trì và phát triển. Khi thời gian may hơn khôn của 1 người chấm dứt, nhịp điệu cuộc sống của họ trở lại như cũ với tất cả những vấn đề, nan đề, rắc rối như cũ. Mà theo tôi, cũng nên như vậy, nếu ai cũng biết phải làm gì với vận may của mình trong lúc không biết mình nên làm gì cho thế giới thì trái đất chắc bị huỷ diệt chỉ sau 1 tuần quá.
Tất nhiên, mỗi người nhận được vận may khi sinh hoạt trong nơi chốn, lĩnh vực khác nhau, cụ thể là lĩnh vực do cung vị nơi Tử Khí trú đóng đại diện. Chúng có thể là mối quan hệ đem lại may mắn, thông tin đem lại may mắn, nơi chốn mang lại may mắn, công việc mang lại may mắn ...v.v... Cái này mỗi người mỗi khác, chứ không phải vào hạn Tử Khí thì đánh đề tất trúng, đoán lô lô tất đúng. Ví dụ, Tử Khí cung 6 gặp may lớn đến đâu là phụ thuộc khả năng đoán ý người khác cũng như khả năng, kinh nghiệm trong việc vừa chiều được ý người khác, vừa đạt được mục đích riêng của mình. Tử Khí cung 7 thường tìm ra những mối quan hệ đem lại may mắn, nhưng nếu bản thân không biết cách bồi đắp, duy trì những mối quan hệ mình có cho tốt đẹp thì chắc cũng sớm quay lại với cái máng lợn cũ.
Nói chung, cung vị Mộc Tinh trên lá số là nơi 1 người đi tìm vận may. Còn cung vị Tử Khí trên lá số mới là nơi 1 người tìm thấy vận may của mình, dù họ có muốn hay không. Thứ tự của các hành tinh trên 1 lá số và tốc độ vận hành của chúng trong vận hạn quyết định số lần xảy ra và thời lượng xảy ra của mỗi hạn Tử Khí. Ngoài ra, còn nhiều nhân tố khác giúp nhận định về hiệu quả sử dụng hạn Tử Khí của 1 người. Vậy nên, có người có vẻ rất hay gặp may, có người chờ mốc mỏ mới thấy vận may mới tới 1 lần. Có người chỉ cần vài tiếng đồng hồ may mắn mỗi tháng cũng làm được 1 cái gì đó đáng kể, có người gặp may liên tiếp hàng mấy tháng trời cuối cùng vẫn chỉ quay về với cái máng lợn cũ. Có người sống dễ dàng thuận lợi bất chấp tố chất bất tài của bản thân, đến độ làm người khác ganh tỵ đỏ mắt mà vẫn luôn mồm kêu ca mình xui xẻo. Có người chỉ cần 1 lần tranh thủ vận may kéo dài hiếm hoi cũng đủ để đưa đời mình sang trang mới. Thực ra, nhân tố con người quyết định rất lớn trong việc sử dụng hiệu quả 1 hạn Tử Khí.
Đọc thêm, các bài có độ hack não tương tự: